VĂN HÓA

Nam Cao - Người viết thay cho những phận đời im lặng

Nữ Trương • 21-10-2025 • Lượt xem: 93
Nam Cao - Người viết thay cho những phận đời im lặng

Nam Cao (1915 – 1951), tên khai sinh là Trần Hữu Tri, được xem là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông không chỉ để lại dấu ấn sâu đậm ở mảng truyện ngắn mà còn ở tiểu thuyết, với những tác phẩm phản ánh chân thực, day dứt và đầy ám ảnh về đời sống của người nông dân cùng tầng lớp trí thức nghèo trước Cách mạng Tháng Tám. Với Nam Cao, viết văn không đơn thuần là sáng tạo nghệ thuật, mà còn là cách để cất tiếng nói cho những thân phận lam lũ, khốn cùng trong xã hội.

1. Nông dân – những số phận bị bần cùng hóa

Trong truyện ngắn của Nam Cao, hình tượng người nông dân hiện lên với tất cả sự khổ đau, tủi nhục. Khác với những bức tranh thiên nhiên êm đềm hay cuộc sống làng quê thơ mộng ở nhiều cây bút khác, Nam Cao chọn cái nhìn thẳng vào sự thật trần trụi.

Ai cho tao lương thiện?

Ảnh minh họa: Internet

"Chí Phèo" chính là tác phẩm tiêu biểu nhất. Từ một anh canh điền hiền lành, Chí bị tha hóa thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại" bởi sự tàn nhẫn của giai cấp thống trị. Thảm kịch của Chí Phèo không chỉ là bi kịch bị cướp mất quyền làm người, mà còn là tiếng kêu xé lòng cho cả một lớp người nông dân nghèo bị dồn đến bước đường cùng. Câu hỏi "Ai cho tao lương thiện?" của Chí không chỉ là sự tuyệt vọng cá nhân, mà còn là nỗi đau chung của người nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến.

Bên cạnh Chí Phèo, Nam Cao còn khắc họa những người phụ nữ nông dân đầy thương cảm. Thị Nở trong "Chí Phèo" tuy xấu xí, dở hơi, nhưng lại là tia sáng nhân tính lóe lên trong cuộc đời tăm tối của Chí. Trong Một bữa no, Lang Rận, hay Nghèo, hình ảnh những người nông dân lay lắt vì cái ăn, cái mặc hiện lên chân thực, đầy ám ảnh. Đó là những phận người nhỏ bé, cam chịu, nhưng ẩn sâu bên trong là khao khát được sống đúng nghĩa của một con người.

Tác phẩm Một bữa no. Ảnh minh họa: Internet

Nam Cao đã thành công khi không dừng lại ở việc miêu tả cái nghèo khổ mà đi sâu vào chiều sâu tâm lý. Ông cho thấy sự nghèo đói không chỉ vắt kiệt sức lực mà còn ăn mòn cả nhân phẩm, khiến con người dễ tha hóa, mất dần ý thức về giá trị sống. Qua đó, Nam Cao đã dựng nên một bức tranh hiện thực dữ dội, đồng thời gửi gắm niềm cảm thông sâu sắc và khát vọng giải thoát cho người nông dân.

2. Trí thức nghèo & bi kịch của những tâm hồn bế tắc

Nếu người nông dân hiện lên với bi kịch của cái đói, cái nghèo thì tầng lớp trí thức nghèo trong sáng tác của Nam Cao lại hiện ra với những day dứt, dằn vặt tinh thần. Nam Cao thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với họ, bởi chính ông cũng là một trí thức nghèo, luôn vật lộn giữa lý tưởng nghệ thuật và những lo toan cơm áo.

Tiêu biểu có thể kể đến nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa. Hộ là một trí thức có hoài bão lớn lao, khao khát sáng tạo những tác phẩm văn chương tầm cỡ. Nhưng nghịch cảnh nghèo túng, trách nhiệm với gia đình đã dần bóp nghẹt giấc mơ ấy, biến Hộ từ một người nghệ sĩ giàu lý tưởng thành kẻ thô lỗ, cay nghiệt. Bi kịch của Hộ chính là bi kịch chung của một lớp trí thức tiểu tư sản bấy giờ: lý tưởng nghệ thuật cao đẹp bị chôn vùi trong hiện thực khắc nghiệt.

Ảnh minh họa: Internet

Trong tác phẩm "Sống mòn", tiểu thuyết tiêu biểu của Nam Cao, ông tiếp tục khắc họa hình tượng người trí thức nghèo qua nhân vật Thứ là một thầy giáo làng quanh quẩn, sống lay lắt với đồng lương ít ỏi, cuộc đời trôi qua nhạt nhòa, vô nghĩa. Thứ ý thức rất rõ sự "mòn mỏi" của mình, nhưng không đủ sức để thoát ra. Chính sự bế tắc ấy đã làm nổi bật thông điệp phê phán của Nam Cao: xã hội thực dân nửa phong kiến không chỉ bần cùng hóa nông dân mà còn đẩy tầng lớp trí thức vào cảnh sống thừa, sống mòn, không lối thoát.

3. Giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc

Nam Cao không nhìn đời bằng con mắt hời hợt, mà đào sâu đến tận cùng nỗi đau, sự giằng xé trong tâm hồn con người. Ông vừa phơi bày bản chất tàn nhẫn của xã hội đương thời, vừa nâng niu, trân trọng phần người dù nhỏ nhoi trong những kiếp sống tưởng như đã bị bóng tối che phủ. Dù viết về Chí Phèo, Thị Nở, Hộ hay Thứ, Nam Cao đều để nhân vật của mình mang một khát vọng: được sống như một con người, được yêu thương, được tôn trọng. Đó chính là giá trị nhân đạo sâu sắc làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm.

Nam Cao đã trở thành một ngòi bút lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại bởi ông đã chọn cho mình con đường sáng tác gắn liền với những mảnh đời khốn khổ. Truyện ngắn và tiểu thuyết của ông là tiếng nói lay động lương tri, phản ánh chân thực đời sống nông dân và trí thức nghèo trước Cách mạng Tháng Tám. Với Nam Cao, "nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối" mà phải là "tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than". Nhờ vậy, văn chương của ông không chỉ mang giá trị hiện thực sâu sắc, mà còn để lại một di sản nhân đạo bất tử trong lòng người đọc muôn thế hệ.